CỨU VẬT VẬT TRẢ ƠN, CỨU NHÂN NHÂN TRẢ OÁN | RANH GIỚI TRẮNG ĐEN | ViVu TVCờ bạc và ghen tuông thanh niên đã ra tay với ân nhân đã Ngày nay, câu Cứu vật vật trả ơn, cứu nhân nhân trả oán dùng để mỉa mai những người lấy oán trả ân, thua kém cả loài vật. Câu chuyện đả kích mạnh mẽ những người vong ơn bội nghĩa, phụ bạc tình nghĩa, vì tiền bạc mà quên đi đạo đức sống, phẩm chất và truyền Video TikTok từ Hinh Long Dam® (@hinhlongdam): "Cứu Vật thì Vật trả Ơn - Cứu Nhơn thì đa phần bị Nhơn trả Oán #Long9Giang #LongMustache®️ #HinhLongDam #LG®Photographer #SaiGon #Teana_Saxophone #HồConRùa #CôngTrườngQuốcTế #TurtleLake". Teana Saxophone. cổ tích 2022: cứu vật vật trả ơn - cứu nhân nhân trả oán | phim cổ tích hay và mới nhất 2022 ️ cổ tích phá án - liêu trai [trọn bộ]: ️ [trọn bộ] thầy tà luyện Truyện cổ tích Cứu vật, vật trả ơn - Cứu nhân, nhân trả oán 1. Anh chàng đi câu và con rắn. Ngày xưa, có một anh chàng nghèo khó, không nghề nghiệp, nhưng được cái có tính hiền từ, 2. Người ân nhân trong trận bão lụt lớn. Anh hãy nghe tôi, rồi chúng sẽ trả ơn anh. Tuy không thiết tha đến việc . Cứu vật, vật trả ơn – Cứu nhân, nhân trả oán là câu chuyện cổ tích Việt Nam, lên án những kẻ bất nghĩa, bụng còn nguy hiểm hơn cả những con vật nguy hiểm. 1. Anh chàng đi câu và con rắn Ngày xưa, có một anh chàng nghèo khó, không nghề nghiệp, nhưng được cái có tính hiền từ, lương thiện, rộng thương mọi người. Khốn khó hơn nữa, vợ anh lại chết sớm, bỏ lại anh ta một mình không biết làm cách nào để nuôi thân. Có dạo anh ta ngửa tay đi ăn xin, nhưng việc làm này cũng chỉ đủ sống qua ngày, mà lại thấy hèn hạ nữa. Anh ta xoay qua nghề làm thuê, nhưng bản chất vụng về, không ai chịu thuê mướn anh cả. Bất đắc dĩ, anh dành dụm được ba mươi đồng tiền, mua được một cái cần câu và xoay sang nghề câu cá. Suốt ngày, anh ngồi nơi bờ sông thả câu, nhưng có bữa không bắt được con cá nào, đành phải nhịn đói. Một hôm, anh vừa móc mồi buông câu thì thấy phao chìm xuống, anh giật lên té ra không phải cá mà là một con rắn nước. Lấy làm bực mình, anh gỡ con rắn ra rồi ném trả xuống sông. Lần thứ hai, anh giật lên, cần câu nặng trĩu, thì lại chính là con rắn nước lúc nãy. Anh than thở – Rắn ơi! Ta nghèo lắm. Ta chỉ có ba mươi đồng mua sắm cái cần câu này, ngươi đừng hại ta, làm hết cả mồi ta lấy gì kiếm ăn. Anh chàng lại ném con rắn xuống nước. Lần thứ ba, lại cũng con rắn đó mắc vào lưỡi câu. Lần này anh ta giận lắm, không thả rắn xuống nước nữa mà định bắt rắn đem về giết thịt. Khi anh ta đi qua cửa đền bà thần Khai Khẩu, tự nhiên con rắn nước nói – Đừng giết tôi! Tôi là con vua Thủy phủ, vì muốn kết bạn với anh nên tôi mới cắn câu nhiều lần như thế. Hãy cho tôi theo anh để giúp anh vượt qua cảnh nghèo khó. Anh chàng câu cá vốn sẵn tính nhân từ, nghe nói bỗng cảm tình, cho rắn theo mình, ngày đêm ở bên nhau như một người bạn thân. Từ đó, anh câu được rất nhiều cá, thứ ăn, thứ bán, cuộc sống rất dễ chịu. Một hôm, rắn lội xuống sông tìm mồi, qua một lúc trở về nói – Trong ba ngày nữa, sẽ có trận bão lụt rất lớn xưa nay chưa từng có, nếu không đề phòng sẽ bị chết trôi. Anh ta nghe lời rắn, chặt cây đóng một chiếc bè bằng nứa để đề phòng tai nạn. Anh lại loan báo cho mọi người xung quanh biết, nhưng không một ai nghe. Quả nhiên, ba ngày sau, gió bão nổi lên ầm ầm, trời mưa như trút nước, người, vật, đồ đạc và mùa màng nước dâng lên, trôi ra biển cả. Mãi cho đến lúc cơn bão tạnh, anh chàng mới chống bè tìm về chỗ cũ. Cứu vật, vật trả ơn 2. Người ân nhân trong trận bão lụt lớn Trên đường đi, anh thấy một ổ kiến đang lênh đênh trên mặt nước, anh định lấy sào đẩy ra xa, nhưng con rắn bảo – Hãy cứu chúng. Anh ta nói – Cứu làm gì bầy kiến, chúng sẽ bò khắp bè thêm khổ. Rắn bảo – Không! Anh hãy nghe tôi, rồi chúng sẽ trả ơn anh. Tuy không thiết tha đến việc kiến đền ơn, nhưng anh ta vì có lương tâm nên nghe lời rắn, vớt ổ kiến bỏ lên bè. Đi được một đoạn, anh ta lại gặp một con chuột đang lội bì bõm, sắp chết đuối. Rắn nói – Hãy mau vớt lấy nó. Anh đáp – Con chuột thì cứ để nó chết chứ cứu làm gì? Rắn nói – Không! Anh hãy nghe tôi đi. Rồi nó sẽ trả ơn anh. Nghe lời rắn, anh ta lại vớt con chuột lên bè. Đến một chỗ khác, chàng lại gặp một con trăn đang nằm cuộn tròn trên một ngọn cây giữa dòng nước đợi chết. Rắn cũng giục anh giúp con trăn thoát nạn. Anh chàng lẩm bẩm – Con trăn là loài vật hung dữ, cứu nó làm gì? Rắn nói – Không! Anh nên nghe lời tôi. Rồi nó sẽ trả ơn anh. Nghe lời rắn, anh ta lại giúp cho trăn lên bờ. Sau cùng, chàng gặp một người đàn ông đang bám vào một khúc gỗ trôi giữa dòng nước. Anh ta không đợi rắn bảo ghé bè lại để cứu. Rắn cản lại – Anh đừng vớt hắn lên làm gì. Hắn sẽ làm hại anh đấy. Anh ta đáp – Người ta thường nói “Cứu một người dân gian bằng một ngàn người âm phủ”. Sao lại quý mạng con vật hơn con người. Rồi mặc kệ con rắn ngăn cản, anh ta vớt người sắp chết đuối đó lên bè, cho ăn uống tử tế. 3. Cứu nhân – nhân trả oán Sau mấy ngày rút nước, anh ta thả tất cả những con vật lên bờ, con người nọ vì nhà cửa tiêu tan, nên anh cho ở lại với mình cùng câu cá nuôi nhau, coi như anh em ruột. Được một thời gian ngắn, con rắn muốn trở về Thủy phủ, lại rủ anh chàng đi theo để biết giang sơn của cha mình. Anh bằng lòng đi chơi. Dọc đường, rắn bảo bạn – Cha tôi là vua Thủy phủ, không thiếu gì châu báu, anh là bạn của tôi, thế nào cũng được trọng đãi. Nếu cha tôi có cho gì anh đừng nhận, chỉ xin cho một chiếc đàn thất huyền mà thôi. Chiếc đàn ấy rất màu nhiệm, có thể phá tan được quân giặc. Đúng như lời của rắn nói, vua Thủy phủ thấy bạn của con mình đến chơi, rất quý trọng, định cho nhiều báu vật, nhưng anh ta chỉ xin mỗi một cây đàn. Vua Thủy phủ thuận tình, trao chiếc đàn cho anh và đưa tiễn lên cõi đất. Anh trở về rất quý trọng cây đàn, nhưng một hôm, có việc phải đi xa, anh cất chiếc đàn nơi bồ lúa, dặn người bạn chớ nên lục lạo ở nơi đó. Người bạn ngờ là anh cất giấu của cải nên đợi anh đi xa rồi lập tức bới bồ lúa lấy cây đàn ra. Hắn cũng đã được nghe anh nói về sự màu nhiệm của chiếc đàn này nên vội vàng mang vào cung vua để lập công danh. Bấy giờ gặp lúc quân đội nhà vua bị quân nước láng giềng đến quấy phá, hắn tâu với vua xin cho đi dẹp loạn. Nhờ có chiếc đàn thần, hắn đã làm cho quân địch tan tác, phải rút về nước. Dẹp yên được giặc, nhà vua khen ngợi và phong hắn làm đại tướng, ban bổng lộc rất hậu. Được giàu sang, hắn không nghĩ gì đến ơn người đã cứu mạng mình nữa. Nhà vua lại toan gả công chúa cho hắn thì bỗng dưng công chúa bị mắc một căn bệnh không nói được nên lễ hôn nhân đình lại để tìm thầy thuốc chữa bệnh. Nhắc lại anh chàng câu cá, lúc trở về nhà không thấy người bạn đâu, lại mất luôn cây đàn thì vội vàng đi tìm. Vào đến kinh đô, anh gặp được người bạn mình đã cứu giúp. Hắn bây giờ ngồi trên kiệu sơn, có quân lính theo hầu hạ, quần áo toàn là nhung gấm rất sang trọng. Anh chàng câu cá đón kiệu lại, cất tiếng hỏi thăm bạn cũ. Nhưng người kia vừa gặp ân nhân của mình vội hét lính bắt trói và để khỏi lộ chuyện. Hắn vu cho anh chàng câu cá là giặc, sai nhốt vào ngục tối, không cho ăn chờ ngày đưa ra pháp trường xử trảm. 4. Cứu vật – vật trả ơn Nằm trong ngục tối, anh câu cá than thở, oán hận con người phản phúc, đột nhiên lũ kiến xuất hiện cất tiếng hỏi – Sao anh lại bị giam ở đây? Anh chàng câu cá ngơ ngác, không biết ai hỏi nên hỏi lại – Ai đó? Tại sao chỉ nghe tiếng nói mà không nhìn thấy người? Bầy kiến đáp – Chúng tôi là bầy kiến đã được anh cứu thoát nạn ngày xưa, hiện đang ở dưới chân anh đây. Anh chàng câu cá kể lại đầu đuôi câu chuyện cho bầy kiến nghe. Bầy kiến nghe xong nói – Chúng tôi không thể làm gì để cứu anh được, nhưng có thể đi tìm con chuột, may ra chuột có cách gì giúp anh. Bầy kiến bèn chia nhau đi tìm chuột và báo tin cho bầy chuột hay tình trạng không may của ân nhân. Chuột bảo – Bây giờ chắc anh ta đang đói lắm, nhưng tôi chỉ có thể mang thức ăn vào ngục để cứu anh ta thôi. Tôi sẽ đi tìm con trăn ngày xưa, may ra có cách gì chăng. Lũ chuột liền tha thức ăn lấy trộm được ở nhà bếp mang vào ngục cho anh ăn. Sau đó, cả gia đình chuột cùng bầy kiến đi tìm trăn. Cả bầy chuột đều sợ trăn ăn thịt nên không dám ra mặt, chỉ có con chuột già liều mạng leo lên cây, gọi con trăn, nói – Bác trăn ơi! Người ơn của ta trước kia nay bị nạn rồi! Tiếp đó, chuột kể lại đầu đuôi câu chuyện cho trăn nghe. Trăn liền nhả ra một viên ngọc, bảo chuột đem về trao cho ân nhân và dặn – Viên ngọc này mài ra có thể trị được bệnh câm của công chúa. Ân nhân của chúng ta có thể nhờ đó mà thoát nạn. Khi có được viên ngọc, anh chàng câu cá gọi người cai ngục lại, nhờ tâu với vua là mình có thuốc chữa được bệnh câm của công chúa. Quả nhiên, sau khi công chúa uống nước viên ngọc mài ra thì nói được câu đầu tiên là sẽ lấy người cứu mình làm chồng. Nhà vua mừng rỡ, hỏi anh ta vì sao mà có thứ thuốc thần diệu như vậy. Anh chàng câu cá kể rõ câu chuyện từ đầu đến cuối, từ lúc câu được rắn nước, cứu các con vật trong trận bão lụt đến lúc cứu được người thì bị người phản bội, còn cứu vật – vật trả ơn, trong đó con trăn cho viên ngọc để cứu công chúa. Nhà vua nghe xong, nói – Thật là bụng dạ hắn nguy hiểm hơn cả những con vật nguy hiểm. Lập tức vua sai lính bắt tên đại tướng bất nhân, bất nghĩa kia giam vào ngục để chờ ngày xét xử. Còn anh chàng câu cá thì được vua phong quan tước và gả công chúa cho. Câu chuyện Cứu vật, vật trả ơn – cứu nhân, nhân trả oán – – Truyện Cứu vật, vật trả ơn – Cứu nhân, nhân trả oán Ý nghĩa truyện Cứu vật, vật trả ơn – Cứu nhân, nhân trả oán Nội dung câu chuyện có vài chi tiết giống với truyện Thạch Sanh – Lý Thông, lên án những kẻ bất nhân, bất nghĩa, bụng dạ của chúng còn nguy hiểm hơn cả những con vật nguy hiểm. Tác giả dân gian nhở chúng ta cần phải luôn có sự đề cao cảnh giác đối với những người xa lạ. Lòng tốt và tình thương cần phải đặt đúng nơi, đúng chỗ. Câu chuyện còn có tác dụng góp phần làm tăng thêm tình yêu và sự gần gũi của các bạn nhỏ dành cho các con vật xung quanh trong cuộc sống hàng ngày. Trong dân gian có truyền tụng một câu thành ngữ “Cứu vật vật trả ơn, cứu nhân nhân trả oán”. Câu thành ngữ này khá phổ biến trong công chúng vì có nhiều người đã từng nói hoặc đã từng nghe. Thông thường nhất là trong giao tiếp mỗi khi bị một người có lần được ta cứu giúp rồi lại dối gạt, lừa phỉnh hoặc phản bội, lúc đó ta thường thốt lên một cách cay đắng cứu vật vật trả ơn, cứu nhân nhân trả oán! Câu này bản thân tôi lần từ khi đang còn đi học cũng đã từng nghe rất nhiều. Nhưng nghe mà lòng cứ thắc mắc mãi sao lại thế nhỉ, làm sao mà có chuyện ngược đời như thế, con vật thì chỉ biết sống bằng bản năng làm sao nó có lý trí để biết mang ơn ai để báo đáp, còn con người thì có lý trí biết phân biệt phải trái, biết ai giúp mình, ai hại mình để mà ứng xử cho đúng chứ, sao lại có chuyện dùng oán để trả ơn cho người đã cứu giúp mình? Sự thắc mắc cứ đeo đẳng mãi mà không lời giải thích nên tôi cố tìm hiểu lý do thì mới biết trong chuyện cổ tích nước ta có một câu chuyện như thế, có một anh chàng trong quá khứ đã có cơ hội cứu các con vật và cứu một người, nhưng sau này chính người được anh cứu đã vì lòng tham lam nên tìm cách hại chết anh để lấy công với vua, nhưng cũng chính nhờ các con vật đã được anh cứu khi thấy anh bị hại đã tìm cách cứu và anh cuối cùng được giải oan và được vua ân thưởng. Câu thành ngữ trên là để minh họa cho chuyện đó. Tôi cứ nghĩ đây là một trường hợp hy hữu chứ không phải thường hay xảy ra, nhưng sau này tìm hiểu thêm tôi mới biết thì ra câu chuyện trên có rất nhiều dị bản không những ở nước ta mà các nước trên thế giới kể cả trong truyện cổ Phật giáo cũng có một chuyện tương tự như thế. Như thế thì trong đời sống chuyện con người dùng oán báo ân đâu phải hiếm! Tôi cứ băn khoăn mãi và rồi tôi tìm một lời giải thích theo ý của mình, tôi cho rằng thật ra câu này là một câu cảm thán chỉ đúng trong những trường hợp khi bị một ai đó chịu ơn ta mà lại phản bội ta thôi và chỉ đúng trong hoàn cảnh đó thôi, chứ nó không thể đúng với đa số chứ đừng nói chi đến coi nó như một phát ngôn mang tính xác quyết, hoặc xem nó như là chân lý vậy! Đồng ý rằng chúng ta đang sống trong một thế giới tương đối, con người cũng có người này người khác, thế gian mà! bởi vậy trần gian mới có lắm chuyện xảy ra, có lắm chuyện để nói. Trong xã hội có nhiều người sống lương thiện với tâm thiện, biết làm lành tránh dữ, biết gieo nhân phước đức, nhưng cũng không ít người sống gian manh lừa thầy phản bạn, chẳng những vong ân bội nghĩa mà còn đem oán báo ân nữa! “Lấy ân báo oán, oán ấy tiêu tan, lấy oán báo oán, oán ấy chập chùng”. Chính vì vậy mà nó tạo nên một xã hội muôn màu muôn vẻ, một xã hội luôn biến động không lúc nào yên lành. Nhưng xét về tổng thể, con người có lý trí, lại có cơ hội được học đạo lý nên biết nhận định để phân biệt phải trái, thiện ác mà hành xử cho đúng với lương tâm và phù hợp với đạo lý, nên bản chất của con người không phải là đem oán báo ân mà phải lấy ân báo ân. Hoặc chí ít cũng “ân đền oán trả”, đó là luật công bằng. Thế nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc thực hiện luật công bằng, ân đền oán trả thì oán đối sẽ kéo dài không dứt và có khuynh hướng biến sự thù oán ngày càng nghiêm trọng hơn. Nợ máu phải đền bằng máu hoặc mạng đổi mạng mới nghe qua chúng ta thấy rất sòng phẳng, thế nhưng đó là một lối hành xử rất bạo lực và tạo sự oán kết kéo dài gây ra biết bao nhiêu là hệ lụy không tốt cho con người, cho xã hội. Giáo lý của Đức Phật không chỉ dừng lại ở luật công bằng mà dạy con người cần làm hơn thế nữa đó là LẤY ÂN BÁO OÁN “Lấy ân báo oán, oán ấy tiêu tan, lấy oán báo oán, oán ấy chập chùng”. Ta thấy Đức Phật dạy con người đối nhân xử thế, hành xử về ân, oán trong đời sống như thế là rất cao thượng, rất bao dung, thể hiện lòng từ bi không bờ bến vượt lên trên tất cả các giáo thuyết của những tôn giáo khác rất nhiều. Đối với nhân thế người ta kêu gọi phải đem lẽ công bằng ra mà ứng xử tức là ân đền oán trả, Đức Phật thì kêu gọi đem lòng từ bi đối với muôn loài ra mà sống, vì chỉ có lòng từ bi và sự bao dung mới hóa giải mọi oán kết và cũng chỉ có lòng từ bi và lòng bao dung mới xây dựng cho ta cho con người, cho xã hội có một cuộc sống an lạc, hạnh phúc thực sự. Hãy lấy lòng từ và bao dung mà đối xử với nhau, lời dạy của Đức Phật có giá trị như là một chân lý áp dụng trong đời sống mà bất kỳ ai cũng có thể áp dụng chứ không cần họ phải là một tín đồ đạo Phật. Chúng ta cũng thấy trong xã hội những con người với tấm lòng quảng đại và hành xử theo cách lấy ân báo oán cũng rất nhiều. Trong cuộc sống hằng ngày ta vẫn thấy có rất nhiều tấm lòng bao dung và độ lượng trong hành xử, có thể họ là phật tử, có thể không, nhưng với tấm lòng từ bi và bao dung ấy họ chính là những bồ-tát giữa đời thường vậy! Đó là những tấm gương sáng cho ta noi theo. Chúng ta cũng thấy trong xã hội những con người với tấm lòng quảng đại và hành xử theo cách lấy ân báo oán cũng rất nhiều. Chính nhờ những tấm lòng nhân ái đó đã giúp xây dựng một xã hội yên bình và giúp cho “người và người sống để thương nhau”. Thế nên bạn cứ an tâm đi cứu vật vật trả ơn, cứu nhân nhân cũng trả ơn và còn hơn thế! Ngày xưa, có một đất nước nọ, ông vua sống rất nhân từ, đạo đức, thông suốt việc đời cho đến việc đạo. Ông thấy rõ kiếp sống con người tạm bợ, mong manh, mạng người sống trong hơi thở, vì công danh, sự nghiệp, vợ đẹp, con ngoan mà nhiều người đành lòng giết hại, trộm cướp, lừa gạt mà bức hại, làm khổ lẫn nhau. Nghĩ vậy, vua liền từ bỏ tất cả, đi qua nước khác, tìm thầy học đạo và xuất gia làm người tu hành. Gần hai mươi năm, ông lánh xa thế gian trần tục, tinh tấn tu hành, sống đời đạm bạc. Chỗ ông đang ở có một hang sâu, không có đường lên. Một hôm, có anh thợ săn vì ham đuổi theo con mồi mà rớt xuống hang. Vị thầy tu đó nghe tiếng kêu cứu, liền chặt dây leo thả xuống. Anh thợ săn nhờ vậy mà thoát chết. Lúc đó, anh đã bắt được một con rắn và một con quạ, nhốt chung vào cái rọ đeo bên mình. Vì thấy hai con vật tội nghiệp nên vị thầy thương tình, mở rọ ra thả chúng đi. Riêng anh thợ săn thì thương tích đầy mình, và thầy nhiệt tình chăm sóc. Sau đó, anh thợ săn phục hồi được sức khỏe, cám ơn rối rít vị ân nhân cứu mình và hứa sẽ có ngày đền ơn, đáp nghĩa. Nói xong, anh chỉ cho thầy ngôi nhà ở bìa rừng và mời thầy khi nào có dịp thì ghé nhà chơi để gia đình có dịp hậu tạ. Trước đó, hai con vật được cứu thoát cũng đã thầm hứa khi thầy gặp chuyện không may, chúng sẽ hết lòng tìm phương cứu giúp. Chú quạ sau khi thoát chết luôn tìm cách trả ơn thầy. Nó nghĩ mãi vẫn không có cách nào để đền ơn xứng đáng. Cuối cùng, nó sực nhớ ra, liền bay vào cung vua lúc nửa đêm để lấy cắp hạt kim cương quý giá của hoàng hậu. Sau đó, nó tìm đến vị thầy để đền ơn cứu mạng bằng cách dâng kính thầy hạt kim cương. Hoàng hậu sau khi ngủ dậy mới phát giác ra hạt kim cương bị mất, liền báo cho vua biết. Vì là vật gia bảo quý giá nên nhà vua truyền rao khắp tất cả thần dân thiên hạ, nếu ai tìm được viên kim cương sẽ được tặng đất đai, nhà cửa, tiền bạc và các nhu cầu cần thiết. Lệnh thông báo được truyền đi khắp nơi từ thành thị phồn náo đến hang cùng ngõ hẻm nên ai cũng biết tin. Riêng vị thầy, sau khi nhận hạt kim cương mới nghĩ rằng gia cảnh anh thợ săn chắc rất túng thiếu nên khởi lòng từ bi đem đến tặng anh ta, không ngờ tai họa bắt đầu ập đến. Tên thợ săn nhân cơ hội này trói vị thầy ân nhân đã cứu sống mạng mình, nộp cho nhà vua để được nhận đầy đủ các thứ nhà vua hứa. Nhà vua hỏi vị thầy “Hạt kim cương này do đâu mà ngươi có, hãy mau thành thật khai báo”. Vị thầy suy nghĩ, nếu ông nói thật ra thì tất cả loài quạ trên thế gian này sẽ bị tiêu diệt hết. Còn nếu tự mình nhận lấy thì phạm giới tu hành sẽ làm cho mọi người mất tín tâm. Nghĩ vậy nên thầy đành im lặng, một mực cam chịu sự đánh đập, hành hạ dã man. Tuy vậy, thầy không khởi tâm oán giận nhà vua, mà còn khởi lòng bi mẫn, thương xót phát nguyện sau khi thành tựu đạo lý giác ngộ giải thoát, sẽ độ nhà vua trước tiên. Nhà vua thấy ngài bị tra tấn dã man mà không hề có thái độ sợ hãi, nên truyền lệnh chôn sống vị thầy, chỉ chừa cái đầu bên trên. Con rắn hay tin thầy bị oan gia vì muốn giúp người mà đành chịu khổ, nó tức tối nên tìm cách cứu thầy. Đêm đó, rắn bò vào cung, cắn chết thái tử là đứa con duy nhất của nhà vua. Xong, nó bò về chỗ thầy bị chôn sống, trao thuốc giải độc cho thầy, rồi từ biệt thầy ra đi. Thương tiếc đứa con duy nhất, nhà vua truyền lệnh, nếu ai cứu được thái tử, ông sẽ nhường lại nửa giang sơn. Danh y các nơi nghe thế đều tìm về cung chữa trị, nhưng tất cả đều bó tay, chào thua. Tin thái tử chết và tin thầy tu bị chôn sống được lan truyền rất nhanh. Người hiểu đạo thì tội nghiệp cho nhà vua, người không hiểu thì nói đáng đời cho nhà vua, kẻ thì nói gieo gió thì gặt bão, họ bàn tán xôn xao vì sự oan trái này. Một người lính đi ngang chỗ thầy tu đang bị chôn sống, vừa đi vừa thốt lên tội nghiệp cho nhà vua quá, có đứa con duy nhất mà giờ phải chịu chết vì rắn cắn. Vị thầy nghe vậy mới nói rằng “Tôi có thuốc giải độc rắn cắn hay lắm”. Thế là tên lính liền đem thuốc giải về trình vua và cho thái tử uống thử. Thật là mầu nhiệm! Mười phút sau, thái tử hồi tỉnh lại trong sự vui mừng của tất cả mọi người. Nhà vua liền truyền lệnh mau cứu sống vị thầy tu và quỳ xuống ăn năn sám hối “Mong thầy tha thứ lỗi lầm, con vì người phàm mắt thịt nên xém chút đã giết oan một người tu hành chân chính như thầy”. Sau đó, nhà vua cùng quan quân, gia đình, người thân đồng đến quy y nương tựa thầy cầu mong sự chỉ dạy. Vị thầy vì lòng từ bi cao cả nên đã chấp nhận hết mọi oan gia đau khổ, để tất cả chúng sinh được sống bình yên, hạnh phúc. Sau đó, thầy hướng dẫn cho vua biết tin sâu nhân quả, khuyên nhủ mọi người làm lành, lánh dữ để cùng nhau sống yêu thương, hiểu biết, để đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Sau khi mọi việc xong xuôi, nhà vua mới hỏi “Tại sao thầy lại không nói lên sự thật?” – “Nếu ta nói lên sự thật thì các loài quạ trong nước đều phải bị hủy diệt hết. Chính vì lẽ đó nên ta không nói. Còn nếu nói sai sự thật thì cũng phạm vào giới cấm, làm cho người khác càng mất niềm tin nơi Phật pháp, ta thà cam chịu đau thương để mọi loài không bị tổn hại”. Vua nghe xong hai hàng lệ rơi mà càng cung kính thầy, vừa cảm phục đức độ của vị chân tu, vừa hổ thẹn vì sự phán xét sai lầm của mình. Kế đến, nhà vua truyền lệnh chu di ba họ gia đình anh thợ săn, nhưng vị thầy xin vua hãy tha thứ, để anh ta có cơ hội làm mới lại chính mình. Vua nghe lời và từ đó phát tâm xây dựng chùa chiền để hướng dẫn cho mọi người tu theo. Câu chuyện ngụ ngôn trên nói lên sự bạc bẽo của con người khi không có sự hiểu biết chân chính, không có lòng nhân, không có tình người, không tin sâu nhân quả. Chính vì không tin sâu nhân quả, tin không có đời sau mà người ta đành lòng giết hại lẫn nhau để bảo tồn mạng sống cho riêng mình. Kẻ có quyền cao chức trọng thì nhân danh thượng đế, buộc mọi người phải kính cẩn tôn sùng. Con người vì có hiểu biết nên hơn hẳn các loài vật nhờ biết suy nghĩ, quán chiếu, tìm tòi, biết vận dụng đi theo chiều hướng tốt đẹp, cùng giúp nhau sống an vui, hạnh phúc. Nếu si mê, chấp ngã thì tìm cách chiếm hữu của kẻ khác bằng nhiều hình thức, miễn sao lợi cho mình là được, còn ai khổ đau mặc kệ. Còn các loài vật thì sao? Khi ai cứu nó, nuôi nó, nó sẽ nhớ ơn suốt đời, không bao giờ có tâm phản phúc, mà còn tìm cách để trả ơn và đền ơn. Chính vì lẽ đó mà dân gian có câu “Cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán”, thật không sai chút nào. Tình người lòng dạ đổi thay Ngoài môi, chót lưỡi những câu ân tình. Biết đền ơn, đáp nghĩa là một việc làm cao quý nhất trong cuộc đời, con người sống thiếu nó thì không có lòng nhân. Biết ơn và đền ơn là đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Hiện tại, người Việt Nam chúng ta vẫn giữ được truyền thống tốt đẹp và cao cả này. Ai phủ nhận công ơn của cha mẹ, công ơn của thầy Tổ, công ơn của đất nước, công ơn của tất cả chúng sinh, kẻ đó gọi là “người vong ơn bội nghĩa”. Ơn cha mẹ là ơn cao cả nhất. Mẹ mang nặng, đẻ đau, cha làm lụng vất vả, nhọc nhằn, chịu cực khổ, mà không hề oán than, chỉ một lòng mong cho con trẻ mau được lớn khôn để nên danh phận ở đời. Đó là sự mong muốn của các bậc làm cha mẹ. Ngoài đời, các em học sinh còn phải biết ơn thầy cô giáo dạy chữ, dạy nghề. Trong đạo pháp, ơn thầy Tổ thì vô cùng cao quý. Cha mẹ làm nên thân ta, thầy cô giúp ta có hiểu biết và công ăn việc làm. Thầy Tổ giúp ta giới, thân, huệ mạng trang nghiêm, trong sạch, sống có nhân cách và đạo đức. Đức Phật ngày xưa, khi thọ ơn ai một điều gì, dù nhỏ nhặt nhất vẫn nhớ và tìm cách trả ơn. Trong một kiếp quá khứ, Ngài thọ ơn một người vì đã nói một lời an ủi. Kiếp hiện tại, vị ấy là đệ tử xuất gia theo Phật, nhưng bị bệnh ghẻ lỡ, hôi hám, do quả báo kiếp trước khi làm quan đánh đập, hành hạ nhiều người oan sai, hiện tại phải bị quả báo bệnh khổ. Phật đích thân cùng ngài A Nan đến chỗ đệ tử thăm bệnh và ân cần hỏi han, chăm sóc. Chính Phật đích thân nấu nước, tắm rửa, lau chùi cho thầy tỳ kheo ấy. Trong cơn khốn đốn, khổ bệnh hành hạ, vị tỳ kheo được Phật quan tâm, tận tình chăm sóc, như được uống nước cam lồ nên thân tâm cảm thấy nhẹ nhàng, an ổn. Song, Phật chỉ dạy phương pháp quán bệnh khổ, vị tỳ kheo tinh cần miên mật, nhiếp tâm quán chiếu mà chứng quả giác ngộ giải thoát. Ta bây giờ yên ổn tu hành, không phải bận rộn lo toan các thứ, vì đã có nhiều người hy sinh, chịu khổ, bảo vệ đất nước, giữ gìn an ninh, trật tự cho mình. Họ đã phải can đảm chấp nhận xa lìa người thân, bảo vệ biên cương, bờ cõi. Ta cần phải cám ơn các nhà lãnh đạo đất nước, cùng các chiến sĩ đã hy sinh thầm lặng. Một đất nước luôn bị giặc giã, luôn bị chiến tranh, thì thử hỏi ta có thể yên ổn tu hành hay không? Do đó, Phật dạy ta phải biết ơn đất nước mà cố gắng tu hành để được an lạc hạnh phúc mà dấn thân phục vụ tốt đạo, đẹp đời. Và còn một ơn này nữa cũng tối quan trọng, đó là ơn tất cả chúng sinh và bầu vũ trụ bao la này. Ta không làm ruộng nhưng vẫn có cơm ăn, ta không nuôi tằm dệt vải nhưng vẫn có áo quần mặc ấm. Biết bao con người phải làm lụng vất vả, hành nghề giết mổ để ta được ăn ngon, sống khỏe và bảo tồn mạng sống. Ơn nghĩa ở thế gian là bao la, vô cùng tận, ta không thể nhất thời mà trả hết những công ơn ấy. Do đó, Phật dạy ta biết ơn và đền ơn là đạo lý uống nước nhớ nguồn. Ai sống luôn nhớ nghĩ và thực hành như vậy, sẽ là những phật tử chân chính sống đúng theo lời dạy của Như Lai Thế viết "Vật trả ơn, người trả oán vì sao lại như thế?" Thích Đạt Ma Phổ Giác - Vườn hoa Phật giáo Giải thích ý nghĩa câu truyện cổ tích cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán nói lên điều gì? những thông tin nào cho chúng ta biết được ý nghĩa cũng như nguồn gốc của câu truyện cổ tích việt nam này. Tìm hiểu thêm Anh em thuận hòa là nhà có phúc Tốt danh hơn lành áo là gì? Cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán là gì? “Cứu vật” là hành động cứu giúp người hoặc động vật gặp nguy hiểm hoặc khó khăn. “Vật trả ơn” là hành động đáp lại bằng cách giúp đỡ người đã từng cứu giúp mình trước đó. “Cứu nhân” là hành động giúp đỡ người khác trong trường hợp họ gặp nguy hiểm hoặc khó khăn. “Nhân trả oán” là một khái niệm trong triết học, đó là ý niệm rằng hành động xấu của con người sẽ dẫn đến hậu quả xấu trở lại cho bản thân người đó. Tức là, nếu bạn làm điều xấu, bạn sẽ phải chịu hậu quả xấu trong tương lai. Nguồn gốc truyện cổ tích cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán Câu chuyện cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân và nhân trả oán không phải là một câu chuyện cổ tích cụ thể. Thay vào đó, đây là các khái niệm phổ biến trong triết học và văn học, có xuất xứ từ nhiều nguồn khác nhau. Trong văn học, các khái niệm này có thể được thấy trong các câu chuyện cổ tích và truyền thuyết từ nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Ví dụ như trong truyện “The Lion and the Mouse” Sư tử và chuột của Aesop, sư tử bị bắt trong cái bẫy và được chuột giải thoát. Sau đó, chuột cũng bị bắt trong cái bẫy và được sư tử giải thoát. Câu chuyện này có thể được xem như một ví dụ về cứu vật và vật trả ơn. Tuy nhiên, các khái niệm này không chỉ tồn tại trong các câu chuyện cổ tích mà còn là một phần của các giá trị và đạo đức của nhiều nền văn hóa trên thế giới. Ý nghĩa truyện cổ tích cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán Câu chuyện cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân và nhân trả oán có ý nghĩa giáo dục rất quan trọng trong việc truyền đạt các giá trị đạo đức và nhân văn cho trẻ em. Các khái niệm này có thể giúp trẻ em hiểu rõ hơn về tình cảm yêu thương, lòng nhân ái, lòng tốt đẹp và trách nhiệm đối với xã hội. Cứu vật và cứu nhân giúp trẻ em hiểu được tầm quan trọng của việc giúp đỡ người khác khi họ gặp khó khăn, giúp trẻ em trở nên nhân từ và có lòng bao dung. Vật trả ơn và nhân trả oán giúp trẻ em hiểu được tầm quan trọng của việc trân trọng những người đã giúp đỡ mình và trả lại bằng cách giúp đỡ người khác trong tương lai, giúp trẻ em trở nên biết ơn và tận tâm. Ngoài ra, các khái niệm này còn có ý nghĩa rất lớn trong việc truyền đạt các giá trị đạo đức và nhân văn cho các thế hệ sau. Chúng giúp con người thấu hiểu và trân trọng giá trị của tình người và tình cảm yêu thương, từ đó trở nên tốt bụng hơn, sống hòa thuận với mọi người và giúp đỡ người khác một cách chân thành và tình nguyện. Câu truyện cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán Sau mấy ngày rút nước, anh ta thả tất cả những con vật lên bờ, con người nọ vì nhà cửa tiêu tan, nên anh cho ở lại với mình cùng câu cá nuôi nhau, coi như anh em ruột. Được một thời gian ngắn, con rắn muốn trở về Thủy phủ, lại rủ anh chàng đi theo để biết giang sơn của cha mình. Anh bằng lòng đi chơi. Dọc đường, rắn bảo bạn – Cha tôi là vua Thủy phủ, không thiếu gì châu báu, anh là bạn của tôi, thế nào cũng được trọng đãi. Nếu cha tôi có cho gì anh đừng nhận, chỉ xin cho một chiếc đàn thất huyền mà thôi. Chiếc đàn ấy rất màu nhiệm, có thể phá tan được quân giặc. Đúng như lời của rắn nói, vua Thủy phủ thấy bạn của con mình đến chơi, rất quý trọng, định cho nhiều báu vật, nhưng anh ta chỉ xin mỗi một cây đàn. Vua Thủy phủ thuận tình, trao chiếc đàn cho anh và đưa tiễn lên cõi đất. Anh trở về rất quý trọng cây đàn, nhưng một hôm, có việc phải đi xa, anh cất chiếc đàn nơi bồ lúa, dặn người bạn chớ nên lục lạo ở nơi đó. Người bạn ngờ là anh cất giấu của cải nên đợi anh đi xa rồi lập tức bới bồ lúa lấy cây đàn ra. Hắn cũng đã được nghe anh nói về sự màu nhiệm của chiếc đàn này nên vội vàng mang vào cung vua để lập công danh. Bấy giờ gặp lúc quân đội nhà vua bị quân nước láng giềng đến quấy phá, hắn tâu với vua xin cho đi dẹp loạn. Nhờ có chiếc đàn thần, hắn đã làm cho quân địch tan tác, phải rút về nước. Dẹp yên được giặc, nhà vua khen ngợi và phong hắn làm đại tướng, ban bổng lộc rất hậu. Được giàu sang, hắn không nghĩ gì đến ơn người đã cứu mạng mình nữa. Nhà vua lại toan gả công chúa cho hắn thì bỗng dưng công chúa bị mắc một căn bệnh không nói được nên lễ hôn nhân đình lại để tìm thầy thuốc chữa bệnh. Nhắc lại anh chàng câu cá, lúc trở về nhà không thấy người bạn đâu, lại mất luôn cây đàn thì vội vàng đi tìm. Vào đến kinh đô, anh gặp được người bạn mình đã cứu giúp. Hắn bây giờ ngồi trên kiệu sơn, có quân lính theo hầu hạ, quần áo toàn là nhung gấm rất sang trọng. Anh chàng câu cá đón kiệu lại, cất tiếng hỏi thăm bạn cũ. Nhưng người kia vừa gặp ân nhân của mình vội hét lính bắt trói và để khỏi lộ chuyện. Hắn vu cho anh chàng câu cá là giặc, sai nhốt vào ngục tối, không cho ăn chờ ngày đưa ra pháp trường xử trảm. Cứu vật, vật trả ơn. Cứu nhân, nhân báo oán - Truyện cổ hay Chuyện kể về chàng trai câu cá cứu được con rắn nước rồi được rắn thông báo sắp có lũ. Nhân mùa lũ, chàng trai cứu được thêm kiến, chuột và trăn cùng một người đàn ông. Sau đó, anh lại bị người này phản bội và được các con vật cứu giúp. Ngày xưa, có một anh chàng không có tài nghề gì cả, chỉ được cái hiền lành hay thương người. Từ lúc vợ chết, anh ta trở nên túng bấn tợn. Có dạo phải ngửa tay ăn xin. Thấy nghề này hèn hạ lại không nuôi nổi tấm thân, anh chàng mới xoay sang đi làm thuê. Nhưng chỉ làm được một ngày anh đã thấy nhọc mệt và bị chủ la mắng nhục nhã, nên lại dự định làm nghề đi câu là nghề anh cho là thong thả tự do hơn. Chiều hôm đó, người ta trả công cho ba mươi đồng kẽm. Anh chàng bèn lấy số tiền đó làm vốn, mua lưỡi mua dây quyết chí làm ăn bằng nghề nghiệp mới. Sáng hôm sau, anh ra ngồi ở bờ sông câu cá. Nhưng mãi đến trưa chả kiếm được một tý gì. Mồi cứ mất toi. Mãi đến chiều mới thấy phao chìm xuống, anh giật lên thì được một con rắn nước. Lấy làm bực mình, anh chàng gỡ con rắn ra rồi quẳng xuống sông. Lần thứ hai giật lên thì lại chính con rắn nước hồi nãy mắc vào lưỡi. Anh than thở với rắn “Rắn ôi! Tao nghèo lắm, chỉ được ba mươi đồng kẽm thôi. Mày đừng hại tao hết cả mồi, rồi đây biết lấy gì kiếm ăn”. Anh chàng lại quẳng rắn xuống nước. Lần thứ ba cũng lại con rắn đó mắc lưỡi câu. Lần này hắn giận lắm không thả rắn xuống nước nữa mà nắm lấy cổ rắn định mang đi giết. Qua cửa đền bà thần Khai Khẩu, tự nhiên con rắn nước kêu lên -Đừng giết tôi. Tôi là con vua Thủy phủ , vì muốn đánh bạn với anh nên mới tự cắn câu nhiều lần như thế. Hãy cho tôi đi theo, tôi sẽ giúp anh vượt qua cảnh nghèo. Anh nghe lời, cho rắn theo mình. Từ đó hắn câu được nhiều cá thứ ăn, thứ bán, cuộc sống rất dễ chịu. Anh chàng với rắn ngày một tương đắc. Một hôm rắn cho anh biết chỉ ba ngày nữa sẽ có một trận lụt lớn xưa nay chưa từng có. Anh nghe lời rắn đóng một chiếc bè nứa để phòng tai nạn. Anh lại còn loan báo cho mọi người xung quanh biết. Nhưng chả một ai thèm nghe. Ba ngày sau, quả nhiên gió bão nổi lên đùng đùng, mưa to như trút, nước dâng lên như biển cả. Người, vật, đồ đạc và mùa màng, đều trôi băng băng mất tích. Mãi đến ngày cơn bão tạnh, anh mới dám chống bè tìm về chốn cũ. Thấy một cái tổ kiến đang lênh đênh trên dòng nước, con rắn bảo anh chàng -Anh hãy cứu chúng nó một chút. Anh trả lời -Vớt làm gì bầy kiến nhỏ mọn ấy để nó bò khắp bè. Nhưng rắn khẩn khoản -Không, anh hãy nghe lời tôi đi. Rồi chúng nó sẽ trả ơn anh. Nghe lời rắn, anh chàng vớt cái tổ kiến lên bè của mình. Đi được một đoạn, lại gặp một con chuột đang lội bì bõm sắp chết đuối. Rắn lại giục anh vớt lên. “ồ -hắn đáp -Con chuột thì cho nó chết chứ cứu nó mà làm gì?” “Không, anh hãy nghe tôi đi. Rồi nó sẽ trả ơn anh”. Nghe lời rắn, anh chàng vớt con chuột lên bè của mình. Đến một chỗ khác họ lại gặp một con trăn đang nằm cuộn tròn trên một ngọn cây giữa dòng nước đợi chết. Rắn cũng giục anh giúp trăn thoát nạn “ồ -hắn đáp. -Con trăn kinh lắm, cứu nó mà làm gì? “ -“Không. Anh hãy nghe tôi đi. Rồi nó sẽ trả ơn anh”. Nghe lời rắn, anh chàng lại giúp cho con trăn lên bè. Sau cùng họ gặp một người đàn ông đang bám vào một cây gỗ nổi bập bềnh giữa dòng nước. Anh không đợi rắn bảo, định vớt lên bè, nhưng con rắn cản lại -Anh đừng vớt nó lên làm gì. Nó sẽ làm hại anh đấy. Anh đáp -Người ta thường nói cứu một người dương gian bằng một ngàn âm ti. Sao lại chỉ cứu vật mà không cứu người kia chứ. Nói đoạn, mặc kệ lời rắn can ngăn, anh nhất định thực hiện ý nghĩ của mình, vớt người sắp chết đuối đó lên bè, cho sưởi lửa ấm và cho ăn uống tử tế. Sau mấy ngày nước rút đi hết, anh thả tất cả những con vật lên bờ. Còn người nọ vì gia đình phiêu bạt, nhà cửa trôi mất cả nên anh cho ở lại với mình cùng câu cá nuôi nhau và coi như em ruột. * * * Đến lúc con rắn nước trở về thủy phủ thì nó mời anh cùng đi theo xuống giang sơn của cha mình. Dọc đường, rắn bảo bạn “Nếu cha tôi có cho gì thì anh nhớ đừng nhận, mà chỉ xin lấy cây đàn thất huyền. Đàn ấy nếu có giặc, gảy một bài là có thể làm cho giặc phải tan”. Vua Thủy thấy có bạn của con tới chơi lấy làm mừng rỡ, đãi anh chàng rất hậu. Khi vua Thủy sai quân hầu mang vàng bạc châu báu đến biếu, anh nhớ lời rắn cố khước từ, chỉ xin có mỗi một chiếc đàn thất huyền. Vua Thủy nể chàng, thuận cho ngay. Anh trở về cõi đất, quý chiếc đàn vô hạn. Một hôm anh có việc phải đi xa. Trước khi đi, anh giấu chiếc đàn thần dưới cót thóc, dặn người bạn chớ có bén mảng đến chỗ cót thóc đó. Nhưng người kia nghe dặn, đồ rằng dưới ấy tất có vật quý bèn cố tâm kiếm tìm, quả bắt được cây đàn. Hắn đã biết sự mầu nhiệm của chiếc đàn ấy bèn lấy trộm rồi trốn đến kinh đô để lập công danh. Hồi ấy quân đội nhà vua phải đối địch với một nước láng giềng luôn luôn kéo quân sang quấy nhiễu bờ cõi. Hắn vào xin vua đi tiễu trừ giặc dữ. Nhờ có chiếc đàn thần, hắn đã làm cho quân đội của đối phương thua liểng xiểng. Lúc thắng trận trở về, hắn được nhà vua hết lời khen ngợi, phong làm đại tướng, ban lộc rất hậu. Được giàu sang, hắn không còn nghĩ gì đến ân nhân của mình nữa. Nhà vua toan gả công chúa cho đại tướng nhưng vừa hứa hôn thì bỗng dưng công chúa bị câm. Vì thế hôn lễ đành phải hoãn lại chờ lúc công chúa lành bệnh mới cử hành. * * * Lại nói chuyện anh chàng câu cá khi trở về thấy mất bạn lại mất cả cây đàn thất huyền thì vội bỏ nhà đi tìm. Vào đến kinh đô, một hôm anh gặp người kia bây giờ đang ngồi trên kiệu sơn son thiếp vàng, có quân gia theo hầu đông nghịt. Anh đón kiệu lại, cất tiếng hỏi thăm bạn cũ. Nhưng người kia vừa gặp ân nhân của mình đã vội thét lính bắt trói lại. Thế rồi, để khỏi lộ chuyện, hắn vu cho anh làm giặc, sai nhốt một chỗ kín đáo, không cho ăn, để chờ ngày đưa ra pháp trường. Trong ngục tối, giữa khi anh chàng đang than thân trách phận thì bầy kiến ngày xưa đã tìm được cách lọt vào hỏi thăm “Tại sao ông bị giam ở đây?”. Anh chàng ngơ ngác không hiểu tiếng ai hỏi mình, bèn hỏi lại “Ai đó? Tại sao tôi chỉ nghe tiếng mà không thấy người?” -“Chúng tôi là bầy kiến mà ông cứu khỏi nạn lụt ngày xưa, hiện đang ở dưới chân ông đây!”. Anh chàng cúi xuống tìm kiến rồi kể chuyện cho kiến nghe nông nỗi của mình. Kiến nói “Chúng tôi không thể làm được gì nhưng để chúng tôi đi kiếm con chuột ngày ấy, may chuột có kế gì chăng”. Lũ kiến bèn chia nhau mỗi con một phương đi kiếm chuột và báo tin không may của ân nhân cho chuột biết. Chuột bảo “Bây giờ chắc ông ấy đói lắm, để tôi mang vào ngục một ít thức ăn đã. Rồi tôi sẽ đi kiếm con trăn xem thử nó có mưu mẹo gì chăng”. Chuột liền đưa khoai và bánh lấy trộm được của một nhà hàng vào ngục cho anh chàng ăn. Anh tỏ lời cám ơn. Rồi cả gia đình nhà chuột lại kéo nhau đi tìm trăn. Lúc sắp đến nhà trăn, cả bầy chuột sợ trăn ăn thịt bèn trèo lên cây cao gọi xuống “Bác trăn ơi! Bác trăn ơi!”. Khi trăn ra, một con chuột già đánh bạo xuống kể chuyện cho trăn biết. Trăn nhả ra một viên ngọc bảo chuột đưa về cho ân nhân mà rằng “Viên ngọc này mài ra thành bột có thể chữa lành câm. n nhân của chúng ta có thể đem chữa bệnh cho công chúa rồi nhờ đó mà thoát nạn”. Khi được ngọc, anh chàng gọi người cai ngục đến nói mình có phép cứu công chúa khỏi câm. Người ta dẫn anh đến trước vua. Quả nhiên sau khi công chúa uống nước ngọc mài bỗng nói được, và câu đầu tiên của nàng là đòi lấy người cứu mình làm chồng. Vua rất 85 86 khen ngợi, hỏi anh ta vì sao có thứ thuốc thần diệu đến thế. Anh chàng kể lại đầu đuôi câu chuyện, từ lúc câu được rắn, cứu được các con vật và người, cho đến lúc bị người phản bội, còn các con vật lại tìm cách trả ơn, trong đó có con trăn cho mình viên ngọc quý. Vua nghe xong tắc lưỡi “Thật là bụng dạ con người sâu hiểm hơn cả những con vật nguy hiểm!”. Lập tức vua sai lính bắt giam tên đại tướng bất nghĩa kia để chờ ngày phán xử. Còn anh chàng đi câu được vua cho làm quan và gả công chúa. Anh ta sống một cuộc đời sung sướng hơn trước. Nguồn Sưu tầm Bạn đang đọc các câu chuyện cổ tích tại website - Kho tàng truyện cổ tích chọn lọc Việt Nam và Thế Giới hay nhất và ý nghĩa cho mọi lứa tuổi dành cho thiếu nhi, tổng hợp trên 3000 câu chuyện cổ tích chọn lọc hay nhất Việt Nam và thế giới. Tại luôn được cập nhật thường xuyên, đầy đủ và chính xác nhất về truyện cổ tích giúp bạn dễ dàng tìm kiếm cho mình câu truyện cổ tích cần tìm. Danh sách những truyện cổ tích việt nam hay nhất Truyền thuyết Thánh gióng, truyện cổ tích tấm cám, sọ dừa, truyền thuyết về Sơn Tinh - Thủy Tinh, truyền thuyết hồ hoàn kiếm, sự tích trầu cau, sự tích con rồng cháu tiên, truyền thuyết thành cổ loa, Cóc kiện trời, Sự tích Táo Quân, chú thỏ tinh khôn, Sự tích chùa Một cột, Chàng ngốc học khôn, Sự tích sấm sét, Sự tích hoa Mào gà, Chử Đồng Tử và Công chúa Tiên Dung, truyện cổ tích trí khôn của ta đây, Sự tích con chuồn chuồn, Sự tích Hòn Vọng Phu, Truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy, sự tích cây khế, Sự tích Thánh làng Chèm, Sự tích thỏ tai dài đuôi ngắn, Sự tích hoa mười giờ, Sự tích chim Quốc, Sự tích công chúa Liễu Hạnh, Cây táo thần, thạch sanh,… Tổng hợp các câu chuyện cổ tích thế giới hay và ý nghĩa nhất, truyện cổ grimm, truyện cổ Andersen, cổ tích thần kỳ Nàng công chúa ngủ trong rừng, Alibaba và bốn mươi tên cướp, Nàng công chúa chăn ngỗng, Cô bé lọ lem, Chú bé tí hon, Ông lão đánh cá và con cá vàng, nàng bạch tuyết và bảy chú lùn, Truyện cổ tích Bà chúa tuyết, Aladdin và cây đèn thần, Ba sợi tóc vàng của con quỷ, Hoàng tử ếch, Con quỷ và ba người lính, Cô bé quàng khăn đỏ,…

cứu vật vật trả ơn